Tuyển tập các bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du dưới đây do Đọc tài liệu sẽ giúp em có thêm gợi ý làm bài và hoàn thành việc tìm hiểu tác phẩm này. Cùng tham khảo nhé!
Đề bài
Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
Bạn đang xem: Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
****
Hướng dẫn làm bài phân tích đoạn trích Thề nguyền
Phân tích đề
– Yêu cầu đề bài: Phân tích cuộc gặp gỡ, thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng để thấy được tình yêu trong sáng, đậm đà giữa Thúy Kiều và Kim Trọng
– Phương pháp làm bài: phân tích
Hệ thống luận điểm
Luận điểm 1: Tâm trạng, tình cảm của Kiều, tâm trạng, tình cảm của Kim Trọng khi Kiều sang nhà Kim Trọng
Luận điểm 2: Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng
Dàn ý chi tiết và sơ đồ tư tuy
Xem dàn ý chi tiết cùng sơ đồ tư duy cho dạng bài này: Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền
Sau khi tham khảo dàn ý, sơ đồ tư duy, các em hãy xem thêm bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều dưới đây để có thêm ý tưởng hoàn thành bài viết của mình.
Văn mẫu chọn lọc phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
Bài tham khảo 1
Văn mẫu 10: Tình yêu chớm nở từ lần gặp đầu tiên
Nhân lần du xuân dự lễ tảo mộ, vui hội đạp thanh cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan, Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên. Dù mới gặp nhau lần đầu nhưng cả hai đều cảm nhận về nhau:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
Về nhà, Thúy Kiều cứ suy nghĩ vẩn vơ, nằm mộng thấy họa thơ cùng Đạm Tiên và được nàng báo tin chẳng lành. Còn Kim Trọng thì cứ ra ngẩn vào ngơ. Chàng tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Thúy Kiều, và ngày đêm mong được nhìn thấy nàng. Một ngày đẹp trời, Kim Trọng nhặt được cành hoa của Kiều vô ý đánh rơi. Hai người gặp gỡ và hứa hẹn.
Một hôm, khi cả gia đình sang chơi bên ngoài, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc. Đoạn trích Thề nguyền miêu tả về cảnh ấy, một cảnh tình yêu lãng mạn, đẹp nhất mà nhà thơ đã dụng tài để giới thiệu tính cách của nhân vật Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu nhà thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều qua nhà Kim Trọng lần thứ hai. Chỉ mới đây thôi, nhân
Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Hai người đã cùng xướng họa thơ văn, cùng đối đáp, tâm sự. Kiều thì lo phận minh “bạc mệnh”. Kim Trọng thì lạc quan, tin vào lẽ “nhân định thắng thiên”, và hứa “thì đem vàng đá mà liều với thân”. Được nghe những lời ấy từ Kim Trọng, Kiều cảm thấy “lòng xuân phơi phới”. Có lẽ đang trong tâm trạng ấy, khi về nhà và không thấy ai thì Kiều đã vội vàng.
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Tất nhiên cảnh đêm trăng ắt hẳn là đẹp, nhưng chủ ý của Kiều đâu phải là ngắm trăng. Cứ tưởng tượng hình ảnh “xăm xăm băng lối” là có thể cảm nhận tâm trạng náo nức, không muốn bỏ phí thời gian thực hiện mong muốn của mình.
Trong lúc đó thì:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Mỏi mệt vì bao ngày mong mỏi, đợi chờ hay lâng lâng sung sướng vì không hẹn mà gặp? Được nhìn tận mắt, nghe tận tai con người và giọng nói của Kiều khiến tâm hồn Kim Trọng như lên chín tầng mây? Có lẽ có cả hai tâm trạng ấy trong hai câu thơ trên. Hình ảnh một Nho sinh vừa tiễn người mà chàng thầm yêu trộm nhớ ẩn trong cụm từ “tựa án thiu thiu” có vẻ mặt vừa “như tỉnh” vừa “như mê” quả thật khó có họa sĩ nào vẽ được. Đang trong tâm trạng đó thì Kim Trọng lại nghe “tiếng sen”, rồi lại thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ thì là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang bước tới. Lúc ấy, nhà thơ miêu tả Kim Trọng mang tâm trạng như vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc.
Từ những câu thơ miêu tả như đã phân tích, nhà thơ chuyển qua hình thức đối thoại khi Kiều và Kim đối diện nhau. Kiều mở lời:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Một lời trần tình về quan niệm sống của Kiều: Chủ động trong tình yêu và trân trọng nó trong hiện thực. Quan niệm của Kiều về tình yêu khác hẳn quan niệm truyền thống đối với phụ nữ thời xưa: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Đạo lí Nho gia đã dạy họ, trong đó có Kiều là tại gia tòng phụ cơ mà! Sở dĩ Kiều phá vỡ sự áp đặt của luân lí Nho giáo dành cho nữ giới có lẽ do Kiều đã cảm nhận được tình yêu chân thực của Kim Trọng, và đặt niềm tin vào con người hào hoa phong nhã này mới chủ động để “rõ mặt đôi ta”.
Được lời như cởi tấm lòng, Kim Trọng rước Kiều vào thư phòng, nhanh chóng thêm đèn cho sáng, đốt thêm trầm để tăng hương thơm. Bấy giờ mới lấy tờ giấy hoa viết lời thề, lấy dao quý cắt tóc chia làm hai phần đặt lên án thư. Tưởng tượng ra hình ảnh ấy từ mấy câu thơ, người đọc đã thấy khung cảnh trang nghiêm mà ấm cúng. Cả hai cùng quỳ xuống, cùng hướng nhìn trời cao…
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Cách tạo niềm tin về tình yêu của đôi trai tài gái sắc đã tạo nên cảnh thật nên thơ và lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Cả hai đều để tâm trí cùa minh (đinh ninh) vào lời thề. Họ như đôi song ca mà bài hát là lời thề chung thủy và người chứng giám là trời đất, “Vừng trăng”. Bốn câu thơ với những từ láy vằng vặc, đinh ninh, từ lặp song song tạo thành đôi như đôi trai tài gái sắc Kiều – Kim đang nguyện thề “tạc một chữ đồng đến xương”.
Có lẽ vì nặng với lời thề ấy mà sau này, khi quyết định bán mình để chuộc cha và em trai, nhất là trong đêm nhờ cậy Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà gắn bó với Kim Trọng thì Kiều luôn nghĩ đến cái chết nghĩ đến “thịt nát xương mòn…, người thác oan, rồi chết ngất sau khi thốt lên lời đau thương tạ lỗi cùng Kim Trọng. Sự nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều là như thế, là không quên lời thề, nhận phần lỗi về mình và tạo hạnh phúc cho người còn sống.
Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tính cách của Kiều, nhân vật chính thì chủ động dứt khoát và chân thật đã phá vỡ tính thụ động của thanh nữ thời xưa về tình yêu đôi lứa do lể giáo Nho gia áp đặt. Dù vậy, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn trong sáng, đậm đà. Điều ấy đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn của Truyện Kiều.
Xem thêm: Phân tích đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
Bài tham khảo 2
Lời thề nguyền hẹn ước dưới vầng trăng sáng kia
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
…
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng[ đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn.
Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng.
Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau của Kiều
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.
Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
Bài tham khảo 3
Phân tích Thề Nguyền trong Truyện Kiều: Đánh dấu một tình cảm thổn thức
Vào dịp đi chơi tiết Thanh minh cùng hai em, Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng, bạn của Vương Quan. Chỉ trong thoáng chốc: Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu kì lạ giữa họ bắt đầu nảy nở từ đây. Ngay trong đêm hôm ấy, hình bóng phong nhã, hào hoa của Kim Trọng đã in đậm trong tâm hồn Thuý Kiều, khiến trái tim nhạy cảm của nàng thổn thức. Nàng băn khoăn tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?
Còn Kim Trọng thì cũng :
Bâng khuâng nhở cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân ơi,
Ao ước được gặp lại Thuý Kiều lần nữa. Như mối lương duyên tiền định, Kiều làm vương chiếc kim thoa cài đầu trên cành đào trong vườn Thuý, Kim Trọng nhặt được đem trả và nhân thể bày tỏ nỗi niềm thầm yêu trộm nhớ. Họ trao đổi kỉ vật cho nhau: Giở kim thoa với khản hồng trao tay và hứa hạn sẽ chung thuỷ cùng nhau.
Rồi một hôm, nhân lúc cha mạ và các em về quê ngoại dự tiệc sinh nhật, Thuý Kiểu đã chủ động sang gặp người yêu. Đoạn trích kể về cảnh hai người gặp gỡ tại nhà trọ của Kim Trọng và cùng nhau thề nguyền gắn bó trăm năm dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời.
Thông qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã ca ngợi tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài, gái sắc, vượt lên trên những rào cản, ràng buộc khắt khe của giáo lí phong kiến đương thời.
Đoạn trích này có liên quan với các đoạn khác trong Truyện Kiểu, ví dụ như đoạn Trao duyên. Những hình ảnh đốt lò hương ấy, sợi tơ phím này má kiểu nhắc đến trong lởi kể với Thuý Vân chính là những hình ảnh trong đêm thể nguyền này. Thuý Kiều bị ám ảnh bởi tính chất mong manh, bất định của tình yêu sau khi thắp hương ở nấm mồ cô quạnh của Đạm Tiên. Trong mơ, Kiều gặp hồn ma người kĩ nữ bất hạnh ấy và từ đó nàng luôn bị ám ảnh bởi bốn chữ tài hoa bạc mệnh.
Thuý Kiều là nhân vật chính trong cảnh Thề nguyền nên tác giả đã dành nhiều câu thơ tâm huyết để viết về nàng. Mải mê tinh tự với người yêu trọn một ngày, đến xẩm tói Kiều mới sực tỉnh, bèn e thẹn nói rằng: vắng nhà chẳng tiện ngồi dai rồi vội vàng chia tay. Cha mẹ và hai em vẫn chưa về, nàng lại vội vàng sang với chàng Kim lần nữa:
Của ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xâm băng lối vườn khuya một mình.
Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ có khả năng gợi tả, gợi cảm mỗi lúc một cao dể miêu tả khát vọng tình yếu của Thuý Kiều. Từ láy xăm xâm tả bước chân Kiểu đi rất nhanh, rất quả quyết; động từ băng thể hiện sự tảo bạo, liều lĩnh của nàng khi dám tìm lối tắt qua vườn khuya để sang nhà Kim Trọng. Nhịp thơ ngắn, gấp gáp : Xăm xảm / băng lối / vườn khuya / một mình đặc tả thái độ chủ động và tâm trạng sốt ruột của Kiều mong được nhanh chóng gặp lại người yêu. Đồng thời, dường như phần nào Kiều muốn tranh đua với thời gian và phủ nhận định mệnh đang ám ảnh, phần khác cũng vì tình yêu mãnh liệt thôi thúc.
Khung cảnh đêm trăng trong vườn Thuý có vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng, như xui khiến những người đang yêu tìm đến với nhau:
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tinh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Trong cái đêm thần tiên ấy, không gian được Nguyễn Du miêu tả bằng hình ảnh ánh trăng chiếu qua vòm lá in những mảng sáng tối mờ tò không đều trên mặt đất: Nhặt thưa gương giọi đầu cành. Ánh đèn từ phòng học của Kim Trọng lọt ra dịu dịu, hắt hiu. Tiếng gót sen của Thuý Kiều nhè nhẹ đến gần khiến cho: Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mô, bỗng sực tỉnh để rồi lại rơi ngay vào trạng thái vừa ngạc nhiên, vừa lâng lâng sung sướng, vì không tin dó là sự thực. Kim Trọng không ngờ bóng dáng nàng Kiều đang thấp thoáng trong giấc mơ bỗng hiện ra trước mắt:
Bâng khuâng đĩnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đồm xuân mơ màng
Là một văn nhân nho nhã, lại đang say đắm Thuý Kiều nên Kim Trọng dã tiếp đón Kiều rất trân trọng và lắng nghe tâm sự của nàng. Thuý Kiều chủ động sang và cũng chính nàng chủ động thắp lên ngọn lửa tình yêu:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường;
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rỏ mật đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Lời nói của Thuý Kiều hàm chứa nhiều nét nghĩa. Thứ nhất, nhà nàng ở liền với nhà Kim Trọng trọ học, vậy mà nàng lại nói là Khoảng vắng đêm trường, đó là biểu hiện của khổng gian và thời gian tâm lí. Khi yêu nhau, người ta cảm thấy gắn nhau bao nhiêu vẫn là chưa đủ, cứ muốn gần thêm nữa. Bởi thế, việc Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm cũng có thể coi là nàng đă tự vượt qua sự ngăn cách của thời gian và không gian tâm lí đề vươn tới làm chủ tình yêu, tự sắp xếp số phận của mình.
Thứ hai, Thuý Kiều nói: Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa là cớ ý nói vì tinh yêu mãnh liệt mà mình phải chủ động sang nhà Kim Trọng. Chữ hoa thông thường để chỉ người con gái, nhưng ở đây, Kiểu dùng chữ hoa như một hàm ý tốt đẹp chỉ tình yêu nồng nàn, tha thiết của minh dành cho Kim Trọng. Tiếp đó, Kiều nói: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ? Trong lời vừa là thanh minh vừa là bày tỏ của Kiều đã ẩn chứa dự cảm chẳng lành về sự dang dở của tình yêu đối lứa. Nàng như dang cổ chạy đua với thời gian, muốn vượt qua định mệnh khắc nghiệt của đời minh. Nguyễn Du đã nhập thân vào nhân vật Thuý Kiều để hiểu và thông cảm với thái độ, hành động trái với lỗ thường của nàng.
Nghe Thuý Kiều tâm sự, Kim Trọng hiểu lòng nàng nôn: Vội vàng làm lỗ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương. Rồi hai người: Liền thi cùng thảo mật chương, cùng thề nguyền kết tóc se tơ, trăm năm vàng đá.
Tác giả đã đặc tả không khí khẩn trương, gấp gáp của buổi lẻ thề nguyền bất ngờ, không dược chuẩn bị trước. Nó diễn ra rất nhanh chóng nhưng cung rất trang nghiêm, đầy đủ trong một không khí thiêng liêng:
Vừng trăng vàng vặc giữa trời,
Dinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ cân vặn tấc lóng,
Trăm nám tạc một chữ đổng đốn xương.
Ở đoạn trích này, tác giả dùng hai lẩn từ vội: Cửa ngoài vội rủ rèm theo, vội vàng làm lỗ rước vào một lần từ xăm xăm; một lần từ băng. Nhịp điệu khẩn trương của buổi lễ thề nguyền dã được tác giả tô đậm bằng những tử đặc biệt ấy.
Lời thề nguyền gắn bó Trăm năm tạc một chữ đổng đến xương của Thuý Kiều và Kim Trọng đã được Vừng trăng vàng vặc giữa trời chứng giám. Đây cũng là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều. Những chi tiết trong đoạn trích này góp phần làm cho người đọc hiểu sâu nội dung của đoạn Trao duyên, vì đêm thề nguyền đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của mối tình đầu nên Kiều không bao giờ quên được. Tình yêu mãnh liệt, lời thề xuất phát từ hai trái tim yêu nồng nàn sẽ mãi mãi in đậm dấu ấn vào tâm tưởng của đôi trai tài gái sắc. Cũng vì thế mà trải qua bao gió dập sóng vùi của cuộc đời, họ vẫn thương nhớ nhau khôn nguôi.
Đoạn trích kể về đêm thề nguyền, đỉnh cao của tình yêu Thuý Kiều – Kim Trọng mà trong đó Thuý Kiều đóng vai trò chủ động. Sự chủ động này đã từng gây ra phản ứng phô phán, chỉ trích dữ dội của một số nhà Nho thử cựu vốn mang nặng thành kiến Nho giáo.
Có hai lý do hiện thực và tâm linh khiến Thuỷ Kiều phải giành quyển chủ động. Lí do hiện thực tất nhiôn là tình yêu mãnh liệt. Thuý Kiều và Kim Trợng đến với nhau bằng một tình yêu rất tự nhiên, nhất kiến chung tình. Thuý Kiều đến với Kim Trọng cũng giống như cánh buổm gặp gió, cánh buồm phải căng gió, con người phải có tinh yêu, do đó nàng không có lỗi. Nhà thơ đã xây thành công một tình yêu trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sẳc. Bên cạnh đó là lí do tâm linh: Thuý Kiều, số mệnh bất công dành cho những người con gái tài sắc nên tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Đến đây thì chúng ta đã hiểu vì sao Thuý Kiều nói với Kim Trọng như để thanh minh vể sự chủ động của mình: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rổi nữa chẳng là chiêm bao?
Đoạn trích Thề nguyền còn thể hiện rõ quan niệm của Nguyễn Du đối với tình yêu và hôn nhân. Nhà thơ ủng hộ tình yêu và hôn nhân hoàn toàn tự do, tự nguyện, vượt ra ngoài khuôn khổ, định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến đương thời. Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quán hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động; nhưng ở đây, bất chấp sự hà khắc của luân lí, của dư luận, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Thuý Kiều. Nhà thơ thể hiện ước mơ về tình yêu tự do qua mối tinh Kim – Kiều; điều đó chứng tỏ rằng ông đã cố cái nhìn tiến bộ vượt trước thời đại.
Mối tình Thuý Kiều – Kim Trọng trong sáng, đẹp đẽ như vậy mà rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước phong ba bão táp của chế độ phong kiến bạo tàn. Nhưng xã hội bất nhân chỉ đày đoạ, vùi dập được tấm thân của Thuý Kiều chứ làm sao cướp được tinh yêu tha thiết của nàng đánh cho Kim Trọng ? Có điều, tấm lòng kiên trinh, chung thuỷ của nàng không thể đương đầu nổi với bao nhiêu thế lực hung hãn trong xã hội vạn ác. Thời gian dẫu có trôi qua nhưng không thể dập lắt tinh yêu trong tim Thuý Kiều. Mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng, nàng luôn có tâm trạng băn khoăn, day dứt: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Đoạn trích này góp phần giúp người đọc hiểu đúng và hiểu sâu hơn nội dung đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Thuý Kiều và nàng sẽ nhớ mãi những chi tiết của đêm thề nguyền thiêng liêng này trong suốt cuộc đời.
Xem thêm: Phân tích nỗi đau của Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên
Bài tham khảo 4
Thề nguyền trong Truyện Kiều tượng trưng cho tình yêu đẹp giữa đôi trai tài gái sắc
Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại thi hào Nga M.Gocki từng quả quyết rằng: Tình yêu – đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh, tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong lòng người đọc. Ai có thể thờ ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Julỉét trong đêm trăng thề nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người quốc sắc, kẻ thiên tài này.
Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Chẳng thế mà cả Rômêô và Juliét, Thuý Kiều và Kim Trọng đều xem nó là minh chứng cho tình yêu của minh trong văn học trung đại Việt Nam, việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại.
Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao nhiêu tiếng chê – khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân lí, cương thường. Trong khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ màn che – tường đông ong bướm đi về mặc ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà người yêu của Kiều thật khó chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.
Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta cho là vô lý, là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.
Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
Vì hoa – vì chàng Kim – vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?
Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những khúc Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi lo lắng đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliét dưới đêm trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê
Tiếng sen, khẽ động giấc hoè
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu kiều là thế khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là điều dễ hiểu.
Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:
Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc Mây một món dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc, hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng Kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vừng trăng vằng vặc giữa trời.
Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt trong cuộc đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là con người của nỗi niềm tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:
Đêm thâu khắc lâu canh tàn
Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.
Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều chốn khỏi nhà Hoạn Thư:
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây…
Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh dêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.
Tình yêu đẹp được thi vị hoá âu cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng bản thân tác giả Truyện Kiều và các nhân vật của ông không bao giờ quá ảo tưởng về nó. Điều này thể hiện ở chữ vội. Chữ vội này gắn chặt với mọi nhân vật trong Truyện Kiều. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vội trong việc ép người hầu khác; Hoạn Thư vội trong việc bắt và hành hạ Kiều, Từ Hải vội khi đầu hàng Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng vội khi tìm lại Thuý Kiều và Thuý Kiều luôn vội trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Ngay trong tình yêu, sự vội vàng ấy cũng luôn ám ảnh. Hai con người son toả ấy có cả cuộc đời để yêu thương nhau sao họ phải vội? Đương nhiên cái sự vội ấy không giống với cái vội vàng của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ: vội yêu, vội chán và cũng vội bỏ. Đó phải chăng là cái vội của niềm khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu đích thực? Cái vội ấy là thứ vũ khí chống lại mọi sự phá hoại hay là dấu hiệu của sự mong manh trong hạnh phúc hai người? Sự vội vàng ấy phù hợp với lo lắng của Kiều:
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao
Kim Trọng vội rước Kiều vào, vội thêm hương, thêm sáp, hai người vội thảo tiên thế, vội trao tóc mây, vội thề nguyền. Dường như thời gian không cho phép họ được chậm trễ; hiện thực không cho phép họ do dự.
Cuộc đời Kiều là một chuỗi dài những biến cố, những sự kiện, mà sự kiện sau có mầm mống và được nuôi dưỡng ngay từ những sự kiện trước đó. Trong hạnh phúc đã có mầm bất hạnh. Bởi vậy, đặt nhân vật trong sự vội vã âu cũng thật hợp lý.
Tuy có những dấu hiệu bất thường ấy, nhưng thề nguyền vẫn là đoạn trích thể hiện rõ nhất niềm hạnh phúc của Kim Trọng và Thuý Kiều trong tình yêu. Thề nguyền là minh chứng cho mối tình trong sáng, mãnh liệt và đẹp đẽ của những con người trẻ tuổi, khao khát yêu và được yêu.
Đại thi hào Đức G.Gốt từng nhận định: Tình yêu ban đầu của tuổi thanh xuân trong sáng bao giờ cũng hướng đến sự cao thượng, có lẽ lời thề nguyền của Thuý Kiều và Kim Trọng cũng là biểu hiện của tình yêu đang hướng đến sự cao thượng ấy?!
Tham khảo thêm:
- Biện pháp nghệ thuật tu từ trong bài Thề nguyền
- Cảm nhận đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều
——————
Sau khi tham khảo những bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều – Nguyễn Du trên đây, doctailieu.com hy vọng em đã nắm được cách làm bài, triển khai các luận điểm cho đề bài này. Để xem các bài văn mẫu lớp 10 khác, em hãy truy cập vào doctailieu.com để tham khảo nhé. Chúc các em học tốt!
[Văn mẫu 10] Tham khảo những bài văn mẫu 10 hay nhất Phân tích đoạn trích Thề nguyền trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Đăng bởi: THPT Sóc Trăng
Chuyên mục: Giáo dục