Phân tích bài thơ Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu, tác phẩm đã đưa Thôi Hiệu lên đỉnh cao sáng chói của nghệ thuật thơ Đường. Bài thơ vừa là bức tranh mô tả cảnh đẹp ở lầu Hoàng Hạc vừa bộc lộ nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
Đề bài: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu.
Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
** Tham khảo dàn ý phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu để nắm được cách làm bài phân tích
Dưới đây là một số bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu mà THPT Sóc Trăng sưu tầm được gửi đến các em tham khảo trước khi làm bài.
Top 3 bài văn mẫu hay phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
Bài văn mẫu 1
Thôi Hiệu là người có bản tính lãng mạn, thơ Thôi Hiệu phóng khoáng, tao nhã. Ông có rất nhiều những tác phẩm hay nhưng nổi bật lên đó là khúc nhạc phủ Trường Can Hành và bài thơ Hoàng Hạc Lâu đã đưa ông lên đỉnh cao sáng chói của nghệ thuật thơ Đường.
Bài thơ như một bức tranh thiên nhiên đẹp nói về cảnh ở Hoàng Hạc lâu. Đứng trước lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đã nhớ đến huyền thoại xưa, nuối tiếc điều tốt đẹp đã qua và suy ngẫm về cuộc sống. Thơ Đường vốn súc tích, cô đọng và đa nghĩa. Lầu Hoàng Hạc là một di tích lịch sử nổi tiếng của Trung Hoa gắn với huyền thoại Phí Văn Vi thành tiên. Một cảnh đẹp xưa nay hiếm thấy vậy nên tác giả đã đặt mình vào thiên nhiên để miêu tả khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của Hoàng Hạc lâu, một di tích đã có nhiều di tích lịch sử cũng như những chiến công của người Trung Hoa, nó là chứng nhân lịch sử chứng kiến nhiều chiến công.
Mở đầu bài thơ tác giả đã nhắc lại nguồn gốc của lầu Hoàng Hạc từ xa xưa:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
(Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.)
Lầu Hoàng Hạc trơ chọi giữa một khoảng không gian rộng lớn mênh mông, giữa một vùng đất trời rộng lớn không có bóng dáng con người, lầu Hoàng Hạc vẫn đứng sừng sững giữa một không gian rộng lớn, hiu hút, trải qua bao tang thương của những cuộc chiến tranh, giờ đây lầu Hoàng Hạc đứng chơ vơ, cô quạnh bên bãi vắng sông trôi khiến thi nhân chạnh lòng nhớ cổ thương kim. Ngay từ hai câu thơ khởi đề ta đã gặp một tâm trạng. Nhà thơ không tả về hiện tại cái đang có mà nhớ về một cái đã có và đã mất: Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất. Nơi đây còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, một dấu tích lịch sử những kỉ niệm xa xưa. Lầu Hoàng Hạc có con chim Hạc vàng, Cánh hạc vàng trở về trong tâm tưởng chỉ để con người thêm khắc khoải, thấm thía sự mất mát… Hai câu đầu đã thể hiện một sự trống vắng, sự hẫng hụt trong tâm hồn. Nhưng trong hoài niệm của con người, cánh hạc vàng kia vẫn còn day dứt:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tỉa, không du du.
(Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa,
Mây trắng nghìn năm lởn vởn hoài.)
Hình ảnh hạc vàng gắn liền với khung cảnh thần tiên. Hạc vàng bay mất không bao giờ quay trở lại mang theo tất cả những gì là huyền ảo nhất, thơ mộng nhất của lầu Hoàng Hạc. Chỉ còn mây trắng vẫn bay giống như ngàn năm trước. Khung cảnh được miêu tả bằng cảm xúc ngậm ngùi, nuối tiếc của nhà thơ. Nhà thơ chìm đắm trong tâm trạng hoài cổ, giữa không gian tịch mịch cô liêu. Tâm trạng của nhà thơ lúc này cũng đang hòa quyện với khung cảnh thiên nhiên ở lầu Hoàng Hạc tâm trạng buồn rầu cô đơn hiu quạnh, trống trải trong tâm hồn nhà thơ đó chỉ là những kỉ niệm về những thứ đã qua, tác giả tiếc nuối những quãng thời gian đó nhưng giờ đã mất đi và vĩnh viễn không quay trở lại, tác giả chỉ luyến tiếc và trống trải trong tâm hồn của mình. Vẫn nói chuyện hạc vàng bay đi và không trở lại nhưng ở đây không chỉ có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại mà còn có sự đối lập giữa cõi tiên và cõi tục. Hạc vàng đã bay về cõi tiên nên nơi đây, dưới còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, trên trời mây trắng bay chơi vơi, dường như còn mong nhớ tiếc nuối điều gì đó. Bốn câu thơ đầu tập trung tả cảnh và lí giải tích lầu Hoàng Hạc. Bàn chuyện xưa và nay để thể hiện tâm trạng, nghĩ suy. Đó là một nghĩ suy mang triết lí nhân sinh sâu sắc – triết lí về sự còn – mất, về sự vô hạn và hữu hạn của trời đất và nhân sinh. Cái gì đã qua đi thật khó trở lại, thời gian cũng vậy, vậy nên người xưa mới từng nói: “thời gian quý như vàng”.
Thiên nhiên đẹp như một bức tranh sơn thủy hữu tình với đường nét, màu sắc hài hòa: nắng chiếu trên hàng cây trên bến Hán Dương; màu xanh mướt của thảm cỏ non trên bãi xa Anh Vũ:
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
(Tinh xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.)
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn và thanh bình yên tĩnh. Một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời với những ánh nắng sương mai soi rọi xuống dòng sông như một tấm gương khổng lồ với hàng cây tươi tốt soi bóng. Giữa mặt sông trong lành đó là màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây mùa xuân. Sau những khoảnh khắc đắm hòa mình cùng huyền thoại, nhân vật trữ tình lại trở về với hiện thực. Và đã tạo nên một bức họa thật đẹp. Bức họa về một lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang cùng với hình ảnh của cây cối, của cỏ xanh.
Tâm trạng thương nhớ quê hương da diết của Thôi Hiệu. Hình ảnh trên sông là nhân tố gợi ra những nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng nhà thơ. Khung cảnh chập chờn, mông lung của cảnh vật đã hòa mình cùng với tâm trạng của nhà thơ:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nỗi nhớ quê hương da diết cùng với tâm trạng buồn cô đơn, ngắm cảnh nảy tình của nhà thơ đã tạo cho bài thơ những đặc sắc và ấn tượng, để lại nhiều day dứt trong lòng người đọc bởi một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp và những nỗi nhớ thương của tác giả đối với cảnh vật đang tồn tại xung quanh con người mình.
Bài thơ Hoàng Hạc lâu đã để lại những giá trị to lớn trong nền văn học Việt nam với bức tranh thiên nhiên đẹp, và tâm trạng của con người với cảnh tức cảnh sinh tình.
Bài văn mẫu 2
“Trước mắt có cảnh nói không được,
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu”
Đó là hai câu thơ của Lý Bạch nói vì sao mình không làm thơ để vịnh lầu Hoàng Hạc. Lý Bạch là một trong những nhà thơ cự phách đời Đường. Hai câu thơ trên cho thấy “thi tiên” Lý Bạch là một con người cực kì khiêm nhường, đồng thời khẳng định “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu là một áng thơ kiệt tác.
Nguyên tác là thơ thất ngôn bát cú. Thi sĩ Tản Đà sáng tạo dịch thành thơ lục bát. Nhiều nhà thơ Việt Nam đã thử bút dịch bài thơ này, nhưng theo ý kiến của Xuân Diệu thì bản dịch của Tản Đà là xuất sắc hơn cả.
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà dịch)
Lầu Hoàng Hạc là một thắng cảnh ở Vũ Xương thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Lầu đẹp, cảnh nên thơ, lại được bao phủ bằng một lớp sương mờ huyền thoại, nên càng trở nên hấp dẫn. Tương truyền Phí Văn Vi, tu tiên đắc đạo, thường cưỡi hạc vàng đến đây chơi. Có biết bao tao nhân mặc khách đã đến thăm lầu, ngoạn cảnh và đề thơ. Thôi Hiệu chỉ để lại gần 40 bài thơ, nhưng chỉ có “Hoàng Hạc lâu” là được truyền tụng hơn cả.
Dào dạt qua những vần thơ là cảm hứng hoài cổ của một thi nhân, du khách. Hai câu đầu, thi hứng khơi nguồn từ chuyện “Hạc vàng” trong huyền thoại, từ đó nói lên sự xúc động đến ngạc nhiên khi nhà thơ nhìn thấy lầu xưa. Lầu đứng chơ vơ. Mái lầu như chìm trong tĩnh mịch, hoang sơ. Bao hoài niệm về “tích nhân” về Hoàng Hạc dâng lên dạt dào, man mác:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu,
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”.
Niềm thương nhớ cảm hoài một lúc một dâng cao. Hạc vàng cùng tiên đã bay đi, chẳng bao giờ trở lại nữa “nhất khứ bất phục phản”. Như ngẩn ngơ! Như chìm đi trong mộng tưởng. Như man mác một mối sầu thương. Nhìn mây trắng phủ trên mái lầu vàng, lơ lửng bay trên bầu trời xanh (bạch vân… du du), nhà thơ như sực tỉnh:
“Hạc vàng đi mất từ xưa!
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay”
“Hạc vàng” với “mây trắng”, quá khứ với hiện tại, cái mất đi từ nghìn xưa với cái hữu hình “còn bay”… hô ứng nhau, đối ứng nhau, tạo nên những vần thơ đẹp vô cùng gợi cảm. Trong phần “đề” và “thực” của bài thơ, ba từ “Hoàng Hạc” ba lần xuất hiện trên cái nền “mây trắng ngàn năm bay chơi vơi” (câu thơ dịch của Khương Hữu Dụng); màu sắc hài hòa tuyệt đẹp làm gợi lên một cảnh quan mỹ lệ nên thơ. Đặc biệt câu thơ thứ 4 “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” gồm 6 thanh trắc xuất hiện liên tiếp, luật bằng trắc của thơ Đường bị phá cách. Âm hưởng câu thơ như bị “thắt” lại nhằm biểu hiện cái cảm giác ngẩn ngơ, bâng khuâng, tiếc nuối của du khách khi ngắm lầu vàng. Ngòi bút của Thôi Hiệu rất điêu luyện trong phối thanh hòa sắc để tạo nên những vần thơ đẹp “thi trung hữu họa, thi trung hữu cầm” cho ta nhiều rung cảm.
Ngắm trời xanh, mây trắng, lầu vàng, mỗi bước chân của thi nhân như dẫn hồn mình phiêu du vào thế giới thần tiên, mộng ảo. Rồi nhà thơ bâng khuâng đưa mắt ra bốn phía, ra chân trời xa. Mặt sông lúc trời tạnh, sáng trong như tấm gương phản chiếu cây cối vùng Hán Dương rõ mồn một, cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi. Cảnh vật sông nước, cỏ cây như chan chứa xuân sắc, xuân tình. Hai câu luận được cấu trúc đăng đối hài hòa, cặp từ láy “lịch lịch – thê thê” là hai nét vẽ tinh tế khắc họa cái “hồn” của cảnh trí non sông. Ngòi bút của Thôi Hiệu đã làm sống dậy cỏ cây thiên nhiên bằng đường nét và gam màu tươi sáng nhiều ấn tượng:
“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
Trải qua trên 1200 năm, không biết đích xác Thôi Hiệu đã đến chơi lầu Hoàng Hạc vào thời gian cụ thể nào, nhưng qua hình ảnh “tình xuyên lịch lịch… ” và “phương thảo thê thê”, người đọc cảm nhận được đó là một mùa xuân đẹp, thanh bình. Câu thơ như một bức tranh thủy mặc, đường nét xa – gần, đậm – nhạt, màu sắc trong và dịu, tinh tế và biểu cảm. Câu thơ dịch của Tản Đà thật vô cùng linh diệu, nó làm tái hiện lại “điệu Đường”, “hồn Đường” trong nguyên tác:
“Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non”
Thi nhân đứng một mình trên lầu cao. Trời đã về chiều. Lầu Hoàng Hạc mờ dần trong bóng hoàng hôn. Lòng man mác sầu thương. Du khách nhìn mãi… nhìn mãi… khắp bốn phía chân trời, vẫn chẳng thấy quê hương mình ở đâu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị?”. Câu hỏi tu từ khơi gợi bao nỗi niềm nao nao, bâng khuâng. Người đọc như hòa điệu, đồng cảm với nỗi u hoài, thương nhớ quê hương của nhà thơ:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
“Trên sông khói sóng” (Yên ba giang thượng) là một hình ảnh đầy thi vị, huyền ảo, gợi tả cảnh sông nước phủ mờ sương khói lúc hoàng hôn. Câu thơ tả ít mà gợi nhiều. Một nỗi buồn thương thấm thía. Một tình quê vơi đầy lâng lâng. Hình ảnh ấy, thi liệu ấy đã được tái tạo, được nhập thân vào hồn thơ dân tộc ta, làm nên vẻ đẹp phong vị Đường thi cổ kính, hoa lệ:
– “Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
(“Tràng Giang” – Huy Cận)
– “Yên ba thâm xứ đàm quân sự…”
(“Nguyên tiêu” – Hồ Chí Minh)
Thơ Đường rất gần gũi và quen thuộc với nhân dân ta. Nó là món ăn tinh thần của các nhà nho, các nhà thơ Việt Nam. Phần lớn các bài thơ kiệt tác của văn học trung đại dân tộc ta đều được sáng tạo theo thi pháp Đường thi – dân tộc hóa, tạo nên bản sắc Việt Nam.
Bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu xứng đáng là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học phương Đông. Cảnh lầu đẹp nên thơ được khơi gợi dưới một lớp sương mờ huyền thoại. Cảm hứng hoài cổ man mác, tình quê bâng khuâng vơi đầy… Tất cả làm nên vẻ đẹp nhân văn của thi phẩm này, và hồn thơ dào dạt của li khách đã in dấu đậm đà trong lòng mỗi chúng ta.
- Có thể bạn quan tâm: Hướng dẫn soạn bài Lầu Hoàng Hạc
Bài văn mẫu 3
Thôi Hiệu (704 – 754) người Biện Châu, tỉnh Hà Nam, đậu tiến sĩ năm 725. Ông còn truyền lại hơn 40 bài, trong đó nổi tiếng nhất là bài Hoàng Hạc lâu. Tương truyền Lí Bạch đi chơi Vũ Xương; lên xem lầu Hoàng Hạc thấy bài thơ này của Thôi Hiệu bèn cầm bút đề vào vách: “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc – Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng không làm được thơ vì đã có thơ của Thôi Hiệu ở trên đầu). Bài thơ vừa là một bức tranh mô tả cảnh đẹp ở lầu Hoàng Hạc vừa bộc lộ nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
Lầu Hoàng Hạc là một di tích văn hoá nổi tiếng ở phía tây nam huyện Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, nay ở gần thành phố Vũ Hán. Tương truyền Phí Văn Vi hành tiên thường cưỡi hạc vàng bay về đây nên được đặt tên là lầu Hoàng Hạc (lầu hạc vàng). Đến thăm di tích này, nhà thơ chỉ thấy còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, không thấy chim hạc đâu, người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi mất rồi, không bao giờ trở lại nữa, còn chăng chỉ có đám mây trắng ngàn năm còn bay mãi chơi vơi. Cái mất đi thì không bao giờ tìm thấy được nữa, cái còn thì cũng là cái gi đó bập bềnh nổi trôi như đám mây trắng trên bầu trời kia. Đứng trước lầu Hoàng Hạc nhà thơ thấy lòng bâng khuâng, tiếc nhớ:
“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
(Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Tả cảnh lầu Hoàng Hạc trong đó âm vang cả một tấm lòng bâng khuâng, tiếc nhớ của nhà thơ. Trở lại với thế đứng ở lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đưa mắt nhìn cảnh vật xung quanh và nhận ra Hán Dương, những hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh và nhìn thấy bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi:
“Tình duyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu”
(Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non)
Cảnh ở đây thật có hồn, thật tĩnh lặng, không có một âm thanh nào, tất cả đều im ắng. Phải chăng tâm hồn nhà thơ đang lắng sâu vào cảnh vật?
Cảnh hoang vắng mênh mang lại chìm ngập trong bóng hoàng hôn vàng vọt đã gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ quê hương và nhà thơ bâng khuâng tự hỏi: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị?” (Chiều tối tự hỏi đâu là quê hương?) “Đâu là quê hương?” lời hỏi ấy chứa chan biết bao tấm lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương và ẩn chứa một nỗi buồn. Nỗi buồn ấy càng được gợi sâu thêm bởi hình ảnh của khói và sóng trên sông: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu” (Khói và sóng trên sông khiến cho người thêm mối sầu)
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”
Hai câu kết đóng bài thơ lại, nhưng nỗi buồn vẫn như âm vang bất tận, tràn ngập trong không gian, đọng mãi trong lòng người đọc tưởng như không bao giờ dứt được.
Hoàng Hạc lâu là một trong những bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu ở đời Đường đến Thi tiên Lí Bạch cũng phải khâm phục. Bài thơ mô tả khái quát cảnh ở lầu Hoàng Hạc, nhưng chủ yếu bộc lộ nỗi hoài vọng xa xưa và nói lên nỗi nhớ quê nhà tha thiết của người lữ khách.
Xem thêm: Cảm nhận bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
************
Trên đây là hướng dẫn phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Hy vọng đây sẽ là tài liệu hữu ích phục vụ việc học tập tác phẩm Hoàng Hạc lâu của em. Ngoài ra, các em hãy truy cập doctailieu.com để tham khảo những bài văn mẫu 10 phong phú khác mà chúng tôi đã sưu tầm và tổng hợp nhé. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu để thấy được bức tranh thiên nhiên đẹp nói về cảnh ở lầu Hoàng Hạc và những suy ngẫm của tác giả về cuộc sống.
Đăng bởi: THPT Sóc Trăng
Chuyên mục: Giáo dục