Home Blog Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

0
Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

     Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền, tham khảo hướng dẫn lập dàn ý phân tích nội dung trích đoạn Thề nguyền của Nguyễn Du qua đó phát triển ý văn khi viết bài nhằm làm sáng tỏ được quan niệm tiến bộ về tình yêu của nhà thơ, sức ảnh của tình yêu vượt qua lễ giáo phong kiến.

>>> Hướng dẫn đọc thêm nội dung soạn bài Thề nguyền để nắm được những nội dung chính của đoạn trích.

Hướng dẫn lập dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

1. Phân tích đề

– Kiểu bài: dạng bài phân tích đoạn trích tác phẩm.

Bạn đang xem: Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

– Vấn đề nghị luận: nội dung, nghệ thuật của đoạn trích Thề nguyền.

– Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,… thuộc phạm vi văn bản Thề nguyền, trích Truyện Kiều (Nguyễn Du).

2. Xác lập luận điểm, luận cứ

Luận điểm 1: Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng

+ Tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều

+ Tâm trạng và tình cảm của Kim Trọng

Luận điểm 2: Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng

+ Không gian, thời gian

+ Lời thề nguyền

3. Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy phân tích đoạn trích Thề nguyền

4. Chi tiết dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền

Dàn ý mẫu 1:

a) Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.

– Giới thiệu nội dung đoạn trích Thề nguyền.

Ví dụ:

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã viết những bài thơ thể hiện thân phận khổ cực và hẩm hiu của con người và nhất là của người phụ nữ. Tấm lòng nhân đạo của ông đã được thể hiện rất sâu sắc qua các bài thơ và sâu sắc nhất được thể hiện qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm nói về một nhân vật có tài sắc vẹn toàn nhưng vì chữ hiếu đã hi sinh bản thân mình. Có một đoạn trích thể hiện tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng rất sâu sắc. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn trích.

b) Thân bài: Phân tích đoạn trích Thề nguyền

* Kiều băng lối đường đi sang nhà Kim Trọng

– Tâm trạng và tình cảm của Kiều:

+ Kiều vội vàng, háo hức muốn được gặp Trọng

+ Tình yêu của Kiều dành cho Trọng rất mãnh liệt

+ Kiều có sự lo lắng về tình yêu của mình đầy phong ba và bão táp

+ Kiều có một tình yêu đầu đời thật đẹp

+ Kiều khát khao được yêu, tình yêu tự do

– Tâm trạng và thái độ của Kim Trọng:

+ Kim Trọng khẩn trương, cẩn thận rước Kiều vào nhà

+ Kim Trọng cũng yêu say đắm Kiều.

* Kiều thề nguyền cùng Kim Trọng

– Nghi lễ thề nguyền được thể hiện trang trọng và thiêng liêng trước trăng, trăng chứng nhân cho tình yêu đôi lứa

– Sự đồng tâm đồng lòng của hai người đối với tình yêu của họ

– Tạo nên niềm tin vào tình yêu

– Tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng.

c) Kết bài: Nêu cảm nhận về đoạn trích Thề nguyền

Ví dụ:

Qua đoạn trích ta có thể thấy được tình yêu đẹp và say đắm của Thúy Kiều và Kim Trọng, tình yêu ấy đã được trời đất chứng kiến qua hành động thề nguyền rất trang trọng và thiêng liêng của đôi lứa.

Dàn ý mẫu 2:

a) Mở bài :

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Ví dụ tham khảo mở bài phân tích đoạn trích Thề nguyền

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. “Truyện Kiều” là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của ông và của nền văn học dân tộc từ trước đến nay. “Truyện Kiều” không chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi văn chương mà còn để lại những dấu ấn sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân. Đoạn trích “Thề nguyền” là đoạn trích để lại nhiều dấu ấn với những câu thơ giàu sức gợi và chứa đựng cả tấm lòng lẫn tài năng của nhà thơ.

b) Thân bài

* Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng

“Cửa ngoài vội rủ rèm the, 

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình

Nhặt thưa gương giọi đầu cành,

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.

Sinh vừa tựa án thiu thiu,

Dở chiều như tinh dở chiều như mê.

Tiếng sen sẽ động giấc hoè,

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”

– Tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều

+ “Xăm xăm”, “băng”: hành động dứt khoát, táo bạo, mạnh mẽ. Trong quan niệm của xã hội cũ, những hủ tục đã trói buộc tự do tình cảm, dựng lên bức rào chắn cho đôi lứa. Nhưng Kiều với trái tim khao khát yêu chân thành, đã bỏ sau lưng mọi lễ giáo phong kiến để tìm đến với hạnh phúc của chim liền cánh cây liền cành.

+ “Nhặt thưa gương giọi đầu cành”, “vườn thưa”, “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”: buổi thề nguyền diễn ra trong khung cảnh trang trọng, thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh “vườn thưa” tạo ra một bối cảnh rất nên thơ.

“Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.

Bây giờ rõ mặt đôi ta,

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?””

+ “Khoảng vắng đêm trường”: là khoảng thời gian tất cả mọi vật đều chìm trong giấc ngủ.

+ “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”: tình yêu thiết tha, chân thành, tự do. Nhưng hoa cũng là tượng trưng cho cái dễ phai tàn, dự báo tương lai không lành của Kiều.

+ “Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”: băn khoăn, lo lắng về sự chia xa tan vỡ.

– Tâm trạng và tình cảm của Kim Trọng

+ Dùng điển tích “tiếng sen”, “giấc xòe” để chỉ giấc mộng gặp người đẹp, là giấc mơ Kim Trọng được gặp nàng Kiều.

+ Đến khi biết mọi việc không còn là giấc mơ nữa thì Kim Trọng đã nhanh chóng rước Kiều vào nhà.

=> Đoạn thơ là màn gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng, là cuộc hội ngộ của cặp uyên ương thuở mới yêu. Đó là thứ tình yêu thuần khiết, chân thành và xuất phát từ trái tim.

* Kim Trọng và Thúy Kiều thề nguyền

“Vội mừng làm lễ rước vào,

Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương

Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi

Vừng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ cân vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”

– Không gian, thời gian: trong nhà Kim Trọng, vào một đêm trăng sáng.

– Các hình ảnh tượng trưng: “đài sen”, “lò đào” gợi nên một không gian thơ mộng.

– “Tiên thề”, “dao vàng chia đôi”: là những tín vật minh chứng cho quyết tâm chung đôi của Kiều và Kim Trọng, thể hiện ước mong được sánh vai.

– Lời thề nguyền của Kiều và Kim Trọng được “vừng trăng” làm nhân chứng.

– “Hai miệng một lời song song”: thể hiện sự đồng lòng son sắt của cả hai, tình yêu đã dẫn đường cho hai trái tim gặp nhau.

– “Tạc một chữ đồng đến xương”: động từ “tạc” đã khiến câu thơ có sức nặng hơn. Mối giao duyên được cả Kiều và Kim Trọng khắc ghi sâu và đến tận xương, lời thề nguyền đã trở thành một niềm sống cho hai tâm hồn.

* Đánh giá chung:

– Giá trị nội dung: ngợi ca, cổ vũ cho tình yêu trong sáng của Thúy Kiều và Kim Trọng; thể hiện ước mơ được tự do yêu đương vượt lên trên lễ giáo phong kiến.

– Giá trị nghệ thuật: sử dụng các hình ảnh ước lệ, điển cố điển tích; vận dụng các hình ảnh ẩn dụ giàu sức chứa; bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo; nghệ thuật tả cảnh đặc sắc.

c) Kết bài

– Nêu cảm nhận về đoạn trích.

Ví dụ: Cảnh dịu dàng, tình yêu thuần khiết, đoạn trích đã dựng lên khung cảnh nên thơ của buổi thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng. Qua đó, đoạn trích đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc về một tình yêu chân thành, thuần khiết giữa nền xã hội phong kiến hà khắc.

Trên đây là hướng dẫn lập dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền với 2 mẫu chi tiết và ngắn gọn dành cho các em tham khảo để làm bài tốt hơn. Ngoài ra, THPT Sóc Trăng cũng đã tổng hợp một số bài văn mẫu sau đây để các em mở rộng vốn từ áp dụng vào bài viết của mình.

Cảnh gặp gỡ, thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng

Bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thề nguyền của Nguyễn Du

Bài văn mẫu 1

Phân tích đoạn trích Thề nguyền: tình yêu cao thượng hay bi kịch tình yêu

Trong cuộc đời này, liệu có mấy người dám khẳng định: ta sống không cần tình? Đại thi hào Nga M.Gocki từng quả quyết rằng: Tình yêu – đó là thơ ca cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình yêu không phải là sống mà chỉ là sự tồn tại! Và như là định mệnh, tình yêu tìm đến văn chương nghệ thuật để được bất tử hoá. Những áng văn thơ về đề tài này, từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí cao nhất trong lòng người đọc. Ai có thể thờ ơ với tình yêu trong sáng của Romeo và Juliét trong đêm trăng thề nguyền? Cũng như vậy, ai có thể không nhận ra một phần tâm hồn mình trong tình yêu của Thuý Kiều và Kim Trọng? Thề nguyền là một nét biểu hiện đẹp trong tình yêu của người quốc sắc, kẻ thiên tài này.

Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là sự khẳng định cho niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Chẳng thế mà cả Rômêô và Juliét, Thuý Kiều và Kim Trọng đều xem nó là minh chứng cho tình yêu của minh trong văn học trung đại Việt Nam, việc xuất hiện một tình yêu kiểu Kim – Kiều thật hiếm thấy. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại. Để bảo vệ, vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:

Cửa ngoài vội rủ rèm che

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Vì hành động xăm xăm băng lối vườn khuya ấy mà Kiều đã nhận lấy không biết bao nhiêu tiếng chê – khen. Các cụ ta xưa xem đó là hành động trái lại với đạo đức, luân lí, cương thường. Trong khi nàng phải gần gũi mình trong cảnh thâm nghiêm kín cổng cao tường hay êm đềm trướng rủ màn che – tường đông ong bướm đi về mặc ai, thì hành động một mình giữa đêm tối tìm đến nhà người yêu của Kiều thật khó chấp nhận, nó không phải là hành động của bậc tiểu thư đài các thâm khuê.

Nhưng ta hãy nhìn nó với ánh mắt và tâm hồn của kẻ đang yêu, những gì các cụ ta cho là vô lý, là sai trái, là không thể chấp nhận kia bỗng trở nên hợp lý, đúng đắn hơn bao giờ hết. Kiều yêu bằng tình cảm đầu đời mãnh liệt, trong sáng nhất của người con gái. Tình yêu đẹp đẽ đã cho nàng sức mạnh vượt qua bóng đêm của khu vườn, bóng đêm của định kiến đế đến với chàng Kim. Điều đáng trân trọng, ca ngợi nữa là Kiều đã không để sự mãnh liệt trong tình yêu dẫn nàng đi quá xa, quá giới hạn cho phép. Và cũng chính Kiều đã biện minh cho hành động của mình.

Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?

Vì hoa – vì chàng Kim – vì con người văn chương nết đất, thông minh tính trời, vào trong phong nhã, ra người hào hoa ấy đã khiến Kiều phải trổ đường tìm hoa giữa khoảng vầng đêm trường. Có trách là trách ai kia chứ sao lại trách nàng?

Yêu tha thiết là thế nhưng Kiều vẫn rất tỉnh táo. Cuộc đời nàng bắt đầu từ những khúc. Bạc mệnh đến lời báo mộng của Đạm Tiên rằng nàng có tên trong sổ Đoạn trường đã khiến cho người con gái trong sáng ấy luôn thường trực nỗi ưu tư, lo lắng. Giữa lúc tình yêu ở độ nồng thắm nhất mà nàng vẫn lo rằng: Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao? Mọi thứ sẽ tan biến như giấc chiêm bao không thể nếu giữ lại bởi hạnh phúc nàng có mong manh. Điều đó dường như không còn là nỗi lo lắng đơn thuần nữa. Nó là điềm báo chăng? Cũng giống như lời tâm sự của Juliét dưới đêm trăng đã khiến chàng Romeo hạnh phúc đến ngây ngất, hành động của Kiều khiến Kim Trọng ngạc nhiên và mừng rỡ không kém:

Sinh vừa tựa án thiu thiu

Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê

Tiếng sen, khẽ động giấc hoè

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Bước chân người đẹp đã đánh thức giấc mộng của chàng Kim. Nàng như hoa lê ngậm trăng với vẻ thanh khiết, sáng láng tuyệt vời khiến chàng Kim ngỡ thần nữ núi Vu Giáp. Chàng không khỏi ngạc nhiên: Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.

Lại là giấc mộng. Dường như khi yêu, người ta nhìn thế giới bằng con mắt mơ mộng. Kiều xuất hiện trước mặt chàng đầy bất ngờ, với vẻ xinh đẹp yêu Kiều là thế khiến chàng ngỡ mình đang đắm chìm trong giấc mộng đêm xuân mơ màng cũng là điều dễ hiểu. Hết ngạc nhiên, chàng vui mừng hạnh phúc:

Vội vàng làm lễ rước vào

Đài sen nối sáp lò đào thêm hương

Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc Mây một món dao vàng chia đôi

Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu sắc, hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng Kim món tóc mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của vầng trăng vằng vặc giữa trời.

Trăng là kẻ cố tri, thường xuyên xuất hiện và đi về để chứng kiến những bước ngoặt trong cuộc đời nàng Kiều, vầng trăng ấy chất chứa đầy tâm trạng bởi dưới trăng là con người của nỗi niềm tâm sự khôn nguôi. Nó có lúc là thứ ánh sáng nhợt nhạt, đe dọa trong đêm Kiều trốn theo Sở Khanh:

Đêm thâu khắc lâu canh tàn

Gió cây trút lá trăng ngân ngậm sương.

Hoặc có thể là vầng trăng sẻ nửa khi Kiều chia tay chàng Thúc:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

Hay là bóng trăng tà đầy hoảng hốt khi Kiều trốn khỏi nhà Hoạn Thư:

Cất mình qua ngọn tường hoa

Lần đường theo bóng trăng tà về tây…

Đã bao lần trăng hiện diện trong cuộc đời Kiều, nhưng có lẽ chỉ có đêm trăng thề nguyền này là tròn đầy, viên mãn nhất. Nó sáng trong vằng vặc giữa trời như lời ghi nhận của thiên nhiên tạo vật trước tình yêu của đôi trẻ. Ánh sáng ấy như lớp màng bảo vệ tình yêu khỏi những tì vết, bụi bặm đời thực; nó khắc hình ảnh đêm thề nguyền vào cuộc đời hai con người như một dấu ấn, một minh chứng cho tình yêu vĩnh hằng.

Tình yêu đẹp được thi vị hoá âu cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng bản thân tác giả Truyện Kiều và các nhân vật của ông không bao giờ quá ảo tưởng về nó. Điều này thể hiện ở chữ vội. Chữ vội này gắn chặt với mọi nhân vật trong Truyện Kiều. Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vội trong việc ép người hầu khác; Hoạn Thư vội trong việc bắt và hành hạ Kiều, Từ Hải vội khi đầu hàng Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng vội khi tìm lại Thuý Kiều và Thuý Kiều luôn vội trong mọi hoàn cảnh, mọi sự việc. Ngay trong tình yêu, sự vội vàng ấy cũng luôn ám ảnh. Hai con người son toả ấy có cả cuộc đời để yêu thương nhau sao họ phải vội? Đương nhiên cái sự vội ấy không giống với cái vội vàng của Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy : vội yêu, vội chán và cũng vội bỏ. Đó phải chăng là cái vội của niềm khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu đích thực? Cái vội ấy là thứ vũ khí chống lại mọi sự phá hoại hay là dấu hiệu của sự mong manh trong hạnh phúc hai người? Sự vội vàng ấy phù hợp với lo lắng của Kiều:

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Kim Trọng vội rước Kiều vào, vội thêm hương, thêm sáp, hai người vội thảo tiên thế, vội trao tóc mây, vội thề nguyền. Dường như thời gian không cho phép họ được chậm trễ; hiện thức không cho phép họ do dự. Cuộc đời Kiều là một chuỗi dài những biến cố, những sự kiện, mà sự kiện sau có mầm mống và được nuôi dưỡng ngay từ những sự kiện trước đó. Trong hạnh phúc đã có mầm bất hạnh. Bởi vậy, đặt nhân vật trong sự vội vã âu cũng thật hợp lý.

Tuy có những dấu hiệu bất thường ấy, nhưng Thề nguyền vẫn là đoạn trích thể hiện rõ nhất niềm hạnh phúc của Kim Trọng và Thuý Kiều trong tình yêu. Thề nguyền là minh chứng cho mối tình trong sáng, mãnh liệt và đẹp đẽ của những con người trẻ tuổi, khao khát yêu và được yêu. Đại thi hào Đức G.Gốt từng nhận định: Tình yêu ban đầu của tuổi thanh xuân trong sáng bao giờ cũng hướng đến sự cao thượng. Có lẽ lời thề nguyền của Thuý Kiều và Kim Trọng cũng là biểu hiện của tình yêu đang hướng đến sự cao thượng ấy?!

Bài văn mẫu 2

Bài văn mẫu phân tích đoạn trích Thề nguyền: đánh dấu một cuộc tình chớm nở

Tình yêu có rất nhiều giai đoạn với các cung bậc cảm xúc khác nhau. Khi cảm thấy có sự đồng điệu giữa hai tâm hồn, những người yêu nhau sẽ thề nguyền để hẹn ước đời đời gắn bó, luôn bên cạnh nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn. Thúy Kiều và Kim Trọng cũng vậy, họ đã có một lễ thề nguyền trong không gian đầy thơ mộng. Có lẽ trong văn chương trung đại Việt Nam chưa có một cuộc thề nguyền nào lãng mạn đến thế.

Mở đầu đoạn trích “Thề nguyền” là sự chủ động đến táo bạo của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng nhân cơ hội cha mẹ và các em sang bên ngoại chưa về nhà:

“Cửa ngoài vội rủ rèm the

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình

Nhặt thưa gương giọi đầu cành

Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu”.

Khi con tim đã rung động vì tình yêu thì ước muốn luôn được ở bên cạnh người mình yêu cũng là điều dễ hiểu. Các động từ “vội”,”xăm xăm”, “băng lối” diễn tả trạng thái vội vàng, nhanh chóng, khẩn trương của Thúy Kiều khi sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. “Vườn khuya” tĩnh mịch, thanh vắng không khiến nàng chùn bước mà ngược lại, tình yêu nồng cháy nơi con tim Thúy Kiều đã khiến nàng xé bỏ rào cản, bức tường ngăn cách tình yêu đôi lứa trong xã hội đương thời. Xã hội xưa quan niệm “Nam nữ thụ thụ bất thân”, trong tình yêu, người phụ nữ không có quyền chủ động quyết định hạnh phúc của mình vậy mà Thúy Kiều lại chủ động “băng lối” sang nhà chàng Kim vào buổi chiều tà. Như vậy chẳng phải là quá táo bạo hay sao? Nàng khao khát một tình yêu đến từ chính trái tim của hai người, một tình yêu tự do và mãnh liệt nên đã thề nguyền cùng Kim Trọng. Mặt trăng đã lên và chiếu những tia sáng qua lá cây tạo nên một không gian huyền ảo. Chàng Kim lúc này đang mơ màng dưới ngọn đèn học hiu hắt:

“Sinh vừa tựa án thiu thiu

Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê

Tiếng sen sẽ động giấc hòe

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần

Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng”.

Chàng thư sinh hiếu học ấy đang “thiu thiu”, chập chờn bước vào giấc ngủ và ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê không biết tiếng bước chân nhẹ nhàng của người mình yêu đang tiến đến gần là mơ hay thực. Thời gian càng về khuya cũng là lúc người đẹp lại gần Kim Trọng. Các hình ảnh ước lệ như “giấc hòe”, “hoa lê”, “bóng trăng đã xế”, “giấc mộng đêm xuân” đã góp phần thể hiện tâm trạng “bâng khuâng” giữa hai bờ hư – thực của Kim Trọng. Tiếng bước chân của Kiều đã làm xao động giấc hòe của chàng thư sinh. Thúy Kiều xuất hiện như thần nữ xinh đẹp của núi Vu Giáp. Vẻ đẹp của bóng trăng và bóng nàng Thúy Kiều như quyện hòa với nhau làm một.Cảnh vật, không gian lãng mạn như thế thật thích hợp cho một cuộc thề nguyền. Chính sự xuất hiện ấy khiến Kim Trọng không khỏi có sự nghi ngờ việc Kiều sang nhà mình là sự thật hay chỉ là giấc mơ.

Mong ước được thề nguyền, sánh đôi và trọn nghĩa thủy chung với Kim Trọng nên Thúy Kiều đã có hành động đầy táo bạo:

“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”

Lí do ấy thật chính đáng và thuyết phục. Vì tình yêu mà nàng chủ động “trổ đường tìm hoa”, vì tình yêu chân chính, tự do mà nàng vượt khỏi những quy định của Nho giáo. “Khoảng vắng đêm trường” không phải thời gian, không gian thực mà là thời gian, không gian tâm lí. Tâm trạng của những người đang yêu luôn ngập tràn nỗi nhớ nhung, vừa mới gặp nhau mà Thúy Kiều đã cảm thấy như xa Kim Trọng một thời gian rất dài. Hơn nữa, Kim Trọng thuê trọ ở gần nhà Thúy Kiều nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. Nàng muốn gần chàng Kim hơn nữa để tình yêu lứa đôi thêm phần gắn kết. Trong lĩnh vực văn chương, từ “hoa” thường để chỉ người con gái tài sắc nhưng trong câu thơ “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa” từ “hoa” ngầm chỉ tình yêu son sắt, tha thiết với chàng Kim. Từ khi gặp mộ nàng Đạm Tiên, Thúy Kiều luôn có dự cảm chẳng lành về cuộc đời của mình và mối tình của mình với Kim Trọng. Dự cảm về sự chia lìa, dang dở luôn thường trực trong tâm trí của người thiếu nữ có vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” ấy. Nhân lúc còn “rõ mặt đôi ta”, Thúy Kiều muốn hẹn ước cùng Kim Trọng bởi nàng lo sợ sau này sẽ không còn cơ hội nữa.

Thấu hiểu mong ước của người mình yêu, Kim Trọng đã “rước” Kiều vào thư phòng của mình để thực hiện lễ thề nguyền:

“Vội mừng làm lễ rước vào

Đài sen nối sáp lò đào thêm hương”.

Ánh sáng của “trướng huỳnh” hiu hắt quá nên Kim Trọng đã lấy thêm nến sáp vào cái đài hình hoa sen để có thêm ánh sáng và chàng cũng thắp thêm hương để lò hương thêm thơm. Khung cảnh ấy vừa gợi sự thiêng liêng lại vừa gợi sự thơ mộng, lãng mạn. Đó cũng là không gian của cuộc thề nguyền diễn ra nhanh chóng, vội vàng nhưng cũng đầy đủ tất cả các lễ nghi cần có:

“Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi

Vừng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Trước tiên, Kim Trọng và Thúy Kiều lấy tờ giấy cùng nhau viết lời thề nguyện, rồi sau đó cắt tóc bằng con dao vàng và chia phần tóc ấy làm hai để đặt lên chiếc bàn dùng để xếp sách thật trang trọng. Vầng trăng sáng “vằng vặc” giữa trời đêm là nhân chứng cho cuộc thề nguyền ấy. Tình yêu của hai người có vầng trăng chứng giám. Lời thề chung thủy của Thúy Kiều và Kim Trọng là lời hẹn thề sẽ đồng tâm, đồng lòng, đồng cam cộng khổ để cùng nhau xây đắp một hạnh phúc dài lâu, vững bền. Nguyện ước trăm năm sẽ gắn bó bên nhau, lời thề trong đêm trăng sẽ giúp tình yêu của họ thêm gắn kết. Cuộc thề nguyền diễn ra mà không có mẹ cha, bạn bè thân thiết làm chứng mà chỉ có hai người hẹn thề với nhau dưới vầng trăng.

Đoạn trích đã thể hiện quan niệm về tình yêu tự do, tự nguyện của đại thi hào Nguyễn Du. Ông trân trọng mối tình Thúy Kiều – Kim Trọng đồng thời cũng xót thương cho mối tình ấy vì vừa được nhen nhóm đã gặp phải sóng gió, trắc trở. Cũng vì lời thề này mà Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân để Vân thay mình ở bên cạnh Kim Trọng trong tâm trạng đầy đau xót. Lời thề nguyền đã góp phần tạo nên niềm tin tưởng vào tình yêu của hai nhân vật và cũng là của tác giả. Qua đó, bạn đọc thấy được tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều – Kim Trọng và thấy được tài năng ngôn ngữ, cách sử dụng các hình ảnh ước lệ của Nguyễn Du.

Trên đây là dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền cùng một số bài văn mẫu hay được Đọc tài liệu biên soạn, hi vọng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em trong quá trình học môn Văn. Chúc các em học tốt !

[Văn mẫu 10] Dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền, tham khảo hướng dẫn lập dàn ý phân tích đoạn trích Thề nguyền của Nguyễn Du.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Rate this post