Home Blog Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung

Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung

0
Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung

Đề bài:

Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung trong Chiếu cầu hiền

Đề bài tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung là một trong những đề văn mẫu 11 hay và thường gặp hiện nay khi làm đề thi về bài Chiếu cầu hiền. Và vì vậy mà Đọc tài liệu đã sưu tầm những bài văn mẫu Chiếu cầu hiền phân tích ý kiến trên hay nhất để cho các em học sinh tham khảo phía dưới đây.

Bạn đang xem: Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung

>>>Xem thêm: Phân tích bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm

Văn mẫu tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung

Bài mẫu 1

Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung ngắn gọn

Ngô Thì Nhậm vốn là quan lại nhà Trịnh, sau theo Tây Sơn và được Quang Trung trọng dụng, ông là người soạn thảo nhiều văn kiện và giấy tờ quan trọng của nhà Tây Sơn. Chiếu cầu hiền là một trong những văn kiện quan trọng đó.

Chiếu cầu hiền tha thiết kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Ngay từ đầu, bài luận thuyết đã cho ta thấy quan điểm của Quang Trung-về người hiền, kẻ sĩ đời xưa: “…người hiền tất phải để cho thiên tử sử dụng”. Hay những kẻ lúc đất nước có nhiều biên cố, vẫn giữ vững khí tiết hoặc giữ lại ngậm tăm như “ngựa đứng trong hàng nghi lễ”…; hay là “bậc cao ẩn giấụ kín danh tiếng không xuất hiện suốt đời”. Ông không phê phán và cũng không ngợi ca họ, bởi vì “nếu giấu mình ẩn tiếng, có tài mà không để cho đời dùng thì không đúng với ý trời sinh ra người hiền”. Với ông, có tài là phải giúp đời. Phải đem tài đó ra phục vụ tổ quốc, phục vụ đời.

Vua Quang Trung thể hiện sự mong mỏi này bằng hình ảnh “trẫm hiện đương ngồi bên mép chiếu, chăm chú lắng nghe, sớm hôm mong mỏi”. Vua thì không ngồi “chính giữa chiếu” mà lại “ngồi bên mép chiếu” để mong đợi người hiền tài, đặc biệt là chăm chú lắng nghe lời người hiền. Câu văn nói lên sự thiết tha, mong mỏi cháy lòng của vua Quang Trung đối với kẻ hiền sĩ, vì sự nghiệp xây dựng tổ quốc.

Bởi vì vua rất coi trọng người hiền tài, đất nước có thịnh là nhờ vào họ. Ông biết nhìn xa, biết nghĩ như vậy bởi ông có tấm lòng của một bậc minh quân đêm ngày vì nước vì dân. Ông khiêm tốn hỏi: “Hay trẫm là người ít đức, không xứng để những người ấy phò tá chăng?”. Câu hỏi mới tha thiết làm sao! Nó đi vào lòng người một cách xúc động, thiêng liêng. Tự nhận mình là người ít đức, hẳn là nhà vua đã suy nghĩ rất nhiều, tự phán xét mình và tự suy ngẫm thường trực. Câu hỏi như rút ruột, như giải bày bao tâm huyết, chân thành thật đáng để ngợi ca.

Vì lo cho đất nước dưới thời mình còn non trẻ, “mọi sự đang bắt đầu”, “kỉ cương triều đình còn nhiều điều thiếu sót, công việc biên ải chính lúc lo toan” và “dân khốn khổ còn chưa hồi sức, việc giáo hoá đạo đức chưa thấm nhuần”. Vì “trẫm nơm nớp lo sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan”. Một vị vua biết lo, biết nghĩ nhiều đến nghiệp chung như vậy thật đáng khâm phục. Bài chiếu đã đi sâu vào lòng người bởi chính tấm lòng chân thành của ông, nó khiến cho người nghe phải xúc động, tự chất vấn lại mình và quyết đem tài mình ra góp sức chung xây dựng non sông đất nước.

Những câu hỏi và sự giãi bày ấy còn thể hiện niềm tin vào dân, vào nước của vua Quang Trung: “Làm nên ngôi nhà lớn không phải chỉ một cành cây, xây dựng nền thái bình không chỉ mưu lược của một kẻ sĩ”. Nghĩa là ông coi trọng sụ đoàn kết toàn dân, thấy được tinh thần chung sức chung lòng của nhân dân ta, đúng như người xưa thường nhắc:

“Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

(Ca dao)

Tác giả viết:”… há lại không có người kiệt xuất hơn đời để giúp rập chính sự buổi đầu cho trẫm ư?” Câu hỏi không phải để hỏi mà để thể hiện niềm tin sự khẳng định vì ông tin “trong một ấp mười nhà cũng có người trung tín, huống chi một đất nước rộng lớn có truyền thống văn chương như thế”.

Niềm tin, sự tha thiết của ông được minh chứng bằng việc ông trọng dụng Ngô Thì Nhậm, một nhân tài hiếm có đời xưa, một hiền tài đáng nể. Đáng ngợi ca là bài chiếu nói lên sự công bằng trong việc trổ tài.của mọi người: “Ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời đều cho phép được dâng thư tỏ bày công việc”. Vì ông cho rằng nhân tài có ở khắp nơi, phải biết lắng nghe, biết khuyến khích, nhất là lúc này sĩ phu Bắc Hà đang do dự giữa ngã ba đường, chưa biết chọn ai để gửi tài. Bài chiếu như một lời trấn an, một sự khích lệ cho họ niềm tin vào vị vua mới. Ông chỉ rõ: “Người có lời lẽ có thể dùng được thì đặc cách bổ dụng, người có lời lẽ không dùng được thì để đây, chứ không bắt tội nói viễn vông, không thiết thực. “Có lẽ hiểu được nỗi sợ của dân, nhiều người sợ mà phải giả dốc ngợi ca để tránh bại thân, nên ông mới nói vậy, như một lời trấn an dân tình đang hoảng sợ, không nên vì sợ mà phải dối lòng. Ông còn cho phép các quan được tiến cử người tài, và “tuỳ tài mà bổ dụng” chứ không sử dụng một cách tuỳ tiện. Cũng như những bậc ẩn sĩ, nếu muốn giúp đời” cũng được phép dâng thư tự cử”. Tình cảm của Quang Trung thật sâu sắc, ông không những tha thiết kêu gọi người hiền tài, mà còn làm ấm lòng dân bởi những chính sách công bằng nghiêm minh.

Bài viết thể hiện tư tưởng tiến bộ của nhà Tây Sơn, đặc biệt là Vua Quang Trung. Nếu không có tấm lòng lo cho dân, cho nước hẳn ông không bao giờ tha thiết cầu hiền đến vậy. Ông biết coi trọng người tài, biết khích lệ họ bằng chính tâm huyết, sự chân thành của mình tù đó ta thấy rõ nhân cách cao cả của một nhà vua, thấy được sự thiết tha mang âm hưởng của bài hịch xưa. “Chiếu cầu hiền” là một văn kiện quan trọng, thể hiện chủ trương đúng đắn của nhà Tây Sơn nhằm động viên trí thức Bắc Hà đem tài năng tham gia xây dựng đất nước. Bài viết giàu tính thuyết phục, lập luận sâu sắc nên dễ đi vào lòng người. Qua đó thấy được tài bút của Ngô Thì Nhậm.

Tóm lại: Bài viết là tấm lòng cao cả đáng khâm phục được ngợi ca của vua Quang Trung, đó là tư tưởng đúng đắn là lòng trung thực, nhân cách cao đẹp của ông trong việc kêu gọi người hiền tài ra giúp nước. Từ đó cho ta hiểu nhiều hơn về vị vua anh minh Quang Trung Hoàng Đế.

>> Tham khảo: Phân tích nghệ thuật bài Chiếu cầu hiền

Bài mẫu 2

Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung hay nhất

Sau khi lên ngôi Hoàng đế và đánh tan hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược, Quang Trung giao cho Ngô Thì Nhậm soạn Chiếu cầu hiền nhằm thu phục người tài ra giúp nước. Bài chiếu thể hiện tấm lòng vì dân vì nước của vua Quang Trung, đặc biệt cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất.

Để viết được những tác phẩm Chiếu, yêu cầu người viết phai am hiểu sâu sắc hoàn cảnh lịch sử xã hội, nắm được những đòi hỏi của đất nước lúc bấy giờ để qua đó tập hợp lại sức lực vì vận mệnh quốc gia. Đối với tác giả Ngô Thì Nhậm, ngoài những yêu cầu trên ông còn là một người sắc sảo trong nghệ thuật thuyết phục. Có thể nói bài Chiếu cầu hiền đã thể hiện một tài năng xuất sắc của tác giả vì cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ rõ ràng, tao nhã.

Mở đầu tác phẩm, tác giả đã dẫn lời của Khổng Tử nhằm tạo dấu ấn mạnh đối với các nho sĩ:

“Từng nghe: Người hiền ở trên đời cũng như sao sáng trên trời. Sao tất phải chầu về Bắc thần (ý này của Khổng Tử trong sách Luận ngữ), người hiền tất phải do thiên tử sử dụng”.

Đoạn mở đầu muốn khẳng định người hiền tài là những tài sản quí giá của đất nước, giống “như sao sáng trên trời”, mà người tài tất phải ra giúp vua trị nước mới xứng với “ý trời” đã sinh ra. Cách so sánh đầy sáng tạo của tác giả đã làm tăng thêm ý nghĩa thuyết phục của bài Chiếu. Hình ảnh “sao sáng trên trời” tượng trưng cho sự tinh anh, khiến nhà vua rất lấy làm trân trọng.

Sang đoạn tiếp theo, tác giả lại đưa ra những khó khăn trong việc thu phục người tài ra giúp nước. Điều đó làm trăn trở nhà vua vì sự phí hoài nhân tài một cách vô ích đó. “Trước đây, thời gấp vận cùng, trung châu lắm việc, người hiền ở ẩn, cố giữ tiết tháo như da bò bền, người ở triều đường không dám nói năng như hàng trượng mã. Cũng có người đánh mõ giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết, chỉ lo trốn tránh, hầu đến trọn đời”. Nhà vua có ý muốn trách những người tài của đất nước đã sống một cách lãng phí tài năng của mình mà không ra giúp vua trị nước. Nếu trong cảnh chiến sự thì việc quốc sự còn nhiều nhưng nay đất nước đã thái bình, nhà vua cần có sự hợp sức của nhân tài để quốc gia được phồn vinh, thịnh vượng hơn. Thế mà người hiền thì ở ẩn hoặc cố ý giữ lấy khí tiết của mình mà không để ý đến việc quốc gia đại sự. Hoặc có những người cũng ra giúp vua nhưng không tận tâm trong công việc. Tác giả viết: “Cũng có người giữ cửa, ra bể vào sông, chết đuối trên cạn mà không tự biết”. Đây là cách phê phán nhẹ nhàng và tế nhị nhưng ẩn ở phía sau là ý tứ rất thâm thúy.

Tìm kiếm người hiền tài giúp nước là công việc gấp gáp và quan trọng hơn lúc nào hết. Vì vậy, nhà vua luôn “sớm hôm mong mỏi”.

Tấm lòng vì nước vì dân của vua Quang Trung không chỉ làm phận sự của một vị tướng tài là dẹp giặc, trừ bạo mà còn lo toan đến đời sống dân sinh. Trong thực tế lịch sử sau khi đất nước đã hòa bình, yên ổn thì “dân khổ chưa hồi sức” nên đặt ra nhiều vấn đề lớn để ổn định và phát triển triều đại. “Dân khổ chưa hồi sức, đức hóa chưa thấm nhuần, trẫm chăm chắm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan. Nghĩ rằng: sức một cây không chống nổi tòa nhà to, mưu lược của kẻ thù sẽ không dựng được thái bình”. Đoạn văn chứa đựng tấm lòng nhà vua vì sự bình an dân chúng và sự phồn vinh nước nhà. Những lời văn chan chứa tâm huyết của vua Quang Trung cho thấy vua không một lúc nào không nghĩ đến cuộc sống dân sinh và những việc lo toan quốc gia đại sự. Tấm lòng đó quả là rộng lớn và quý báu của một vị vua suốt đời dâng hiến cho dân tộc. Một nhà vua với những lí tưởng cao đẹp như thế đất nước sẽ luôn được thái bình, dân chúng sẽ luôn được hưởng ấm no hạnh phúc.

Song trong lòng nhà vua dường như lúc nào cũng luôn canh cánh nỗi lo về sự nghiệp trị an nước nhà. “Trẫm chăm chắm run sợ, mỗi ngày muôn việc lo toan”. Quả là tấm lòng rộng lớn của đức vua đã phủ nhận lên toàn thể đời sống dân sinh làm cho mọi người được hưởng sự bình an và no ấm.

Đoạn thứ ba của bài Chiếu cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của vua Quang Trung là xuất chúng, thể hiện rõ tình yêu nước thương dân nồng nàn của một nhà lãnh đạo tài ba. Để hợp sức dân lại để xây dựng cơ nghiệp đất nước, nhà vua không loại trừ một tầng lớp xã hội nào, miễn là công dân trong nước có tài và đức đủ để gánh vác chuyện quốc gia đều được lựa chọn vào trong triều để giúp vua. “Vậy ban chiêu xuống, quan liêu lớn nhỏ và dân chúng trăm họ ai có tài năng học thuật, mưu hay giúp ích cho đời, đều cho phép được dâng thư bày tỏ công việc”.

Có thể nói ở đây, tính dân chủ đã được hình thành và phát huy cao độ. Điều đó nói lên tính cấp thiết của đất nước trong việc trọng dụng người tài vào nắm giữ các chức vụ khác nhau trong triều đình mới.

Trong lịch sử ít có một nhà vua nào đề cao tối đa tính dân chủ trong việc tuyển dụng nhân tài vào giúp vua như Quang Trung. Chứng tỏ lòng yêu nước thương dân của nhà vua là vô cùng to lớn và vĩ đại bởi tinh thần muốn đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng một nước lạc hậu và yếu kém của vua Quang Trung. Với cách nhìn xa trông rộng đó chứng tỏ. nhà vua là người am hiểu quy luật phát triển của lịch sử, đã thấy được tương lai sau này của đất nước. Sự tiên tri đó nói lên tài phán đoán, tiên tri của một vị vua anh minh đối với quốc gia, dân tộc, bởi vì trong sâu thẳm tấm lòng nhà vua luôn nung nấu một khát vọng làm sao cho dân no ấm, hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Đó cũng chính là mơ ước của người dân nhằm canh tân nước nhà.

Bài Chiếu cầu hiền là tấm lòng của vua Quang Trung đối với dân với nước, tấm lòng đó là niềm mong muốn được cống hiến vì sự phồn vinh của nước nhà và vua Quang Trung đã từng nung nấu. Qua bài chiếu này ta có thể nhận định rằng, tài nhìn xa trông rộng của nhà vua anh minh Quang Trung là bằng chứng lịch sử về tình yêu nước nồng nàn của một vị vua kiệt xuất.

Quang Trung xứng đáng đi vào lịch sử như một nhân vật tài ba nhất trong lịch sử trung đại nước nhà.

—–

Với những gợi ý cho đề bài Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung là những bài văn mẫu Chiếu cầu hiền trên, hi vọng các em học sinh cần tìm hiểu kĩ càng để từ đó có thể xây dựng cho mình một bài văn phân tích chi tiết, độc đáo và ấn tượng.

Phân tích tấm lòng vì dân vì nước và tài nhìn xa trông rộng của Quang Trung, tuyển tập những bài văn mẫu Chiếu cầu hiền phân tích về ý kiến trên cho các em học sinh tham khảo

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Rate this post